Bỗng nhiên lại một lần nữa viết về Hầu Hiếu Hiền. Không có gì mới, vẫn là một cái đã cũ đem ra xài lại. Nhưng, khi xem lại Three times – vẫn thấy lại xúc cảm ngày xưa, sau khi đã xem bộ phim từ hơn hai năm trước. Cho tới giờ, đây là bộ phim duy nhất tôi chưa từng đọc một review nào, bởi vì tôi chưa bao giờ viết gì về nó cho trọn vẹn.
Chie đã vác về nhà bộ phim Le Voyage du Ballon Rouge. Nhưng tôi chưa xem – không phải vì không có thời gian, mà tôi chưa muốn làm quen với Hầu Hiếu Hiền trong một bộ phim “không châu Á”.
Trước đây, tôi không hiểu tại sao ngay từ bộ phim đầu tiên, tôi đã thích đạo diễn này tới thế. Nhưng, giờ thì tôi hiểu. Ông có quá nhiều thứ tôi thích, và tôi có: bi quan, cực đoan, muốn xây dựng về mọi thứ như hàng ngày nó vẫn diễn ra như thế, tình yêu trong sáng dành cho trẻ em, nỗi buồn rầu dành cho những cô gái đẹp – mọi cô gái… Hầu hết phim Hầu Hiếu Hiền đều khiến cho người ta có cảm giác như ông có thể bắt đầu từ bất cứ khi nào, cũng có thể kết thúc vào bất cứ khi nào. Nhưng, tôi cảm thấy cuộc sống vẫn như thế, trữ tình, buồn, cay đắng và kiềm chế, rối loạn… nhưng nó đẹp, và không ai muốn từ chối nó, dù người ta cứ đi, đi mãi, tìm kiếm mãi một cái gì, rời bỏ một cái gì.
Three times là bộ phim hiếm hoi của Hầu Hiếu Hiền thực sự nói về tình yêu. Tình yêu của ba thời đại. Tôi nhớ thầy NQL đã nói về bộ phim này. Thầy – từ cái nhìn của một nhà biên kịch – cho rằng kịch bản của bộ phim đáng vứt đi. Người ta không ai lại chia ba thời thành ba khúc như vậy, người ta có thể đan cài nó vào nhau. Nhưng, đến cả David Lynch cũng chỉ dám dùng chung diễn viên cho hai cuộc đời trong Mulholland Dr., Hầu Hiếu Hiền có những ba. Hơn nữa, ta không cần thiết làm cho bộ phim thành quá phức tạp và không hiểu được. Tuy nhiên, khi nói về nội dung phim, thầy nói: ở phần thứ nhất, bối cảnh năm 1966: tình yêu là khi người đàn ông đi tìm người đàn bà; ở phần thứ hai, năm 1911: tình yêu là khi người đàn bà chờ đợi người đàn ông ra đi chẳng biết khi nào quay lại… Nhưng thầy không nói về câu chuyện thứ ba, năm 2005. Tôi thì có thể nói nốt về câu chuyện này. Vào năm 2005, tình yêu đã chết.
Tôi sẽ làm một việc hết sức bần tiện là kể lại cho mọi người nghe từng phần một của bộ phim (bởi tôi đã cố bảo một vài người xem bộ phim này và họ chỉ xem hết phần thứ nhất và vứt toẹt nó đi). Tôi sẽ không viết về những thứ mà tôi đã viết quá nhiều về Hầu Hiếu Hiền như phá vỡ bố cục, sức biểu cảm của ánh sáng, long take, góc máy… Những cái đó, ai xem phim của ông đều đã biết, và cũng vì những thứ đó mà đa số người ta ngủ lăn quay khi xem phim ông, đặc biệt là với những phim A time to live, a time to die hay Flowers of Shanghai.
Người ta dễ phải lòng phần đầu tiên, câu chuyện tình năm 1966. Và đó hẳn cũng là lý do Hầu Hiếu Hiền đưa nó lên đầu tiên và gọi nó là A time for love, dù theo trật tự thời gian nó phải nằm ở giữa. Đó là những ngày hạnh phúc. Cô gái tới làm việc cho một quán bi-a, ở đó cô đọc được lá thư tỏ tình của người đàn ông dành cho một phụ nữ khác. Họ gặp nhau, chơi bi-a cùng nhau. Cô chuyển đi, anh nhập ngũ. Anh đi tìm lại cô qua bao nhiêu mảnh đất. Rồi anh tìm được cô. Họ gặp nhau, hỏi han vài điều giữa quán bi-a đông nghẹt, cô xin cho anh điếu thuốc, họ đi ăn tối. Anh lỡ chuyến tàu cuối cùng, và họ đợi chuyến xe muộn. Dưới mưa, tay họ tìm lấy nhau, không quá riết róng, nhưng đủ dịu dàng để nói một điều từ đáy lòng.
Với Hầu Hiếu Hiền, thập kỷ 60 hẳn là những ngày ông yêu nhớ nhất trong suốt cuộc đời. Nỗi hoài niệm của ông về những ngày này lặp đi lặp lại, lãng mạn, thanh bình. Ông sử dụng hai bài hát tiếng Anh nổi tiếng của những năm 60 cho đoạn phim này. Chúng không hẳn là hai bài hát ngọt ngào và vui vẻ, nhưng từ đó, người ta thấy được cảm giác của tình yêu pha với cảm giác nuối tiếc.
Tuy nhiên, bài hát khiến người ta nhớ nhất phim phải là bài hát của đoạn thứ hai, năm 1911 – A time for freedom. Đó là một trong hai cảnh có âm thanh duy nhất trong suốt cả một đoạn phim câm dài. Tôi biết Thư Kỳ không hát những lời này, nhưng khuôn mặt cô biểu cảm chân thực tới mức người ta thấy cô đang rung chuyển. Tiếng hát đó sầu thảm, da diết và run rẩy. Người đàn ông trong phim đó nói nhiều tới tự do, tới cuộc đấu tranh mà anh theo đuổi để giành độc lập cho đất nước, anh giúp đỡ một cô ca kỹ khác để cô ấy có được tự do. Nhưng, điều duy nhất anh quên là tự do của người phụ nữ yêu anh – và có thể là người phụ nữ anh yêu. Cô là con chim đẹp bị nhốt lại trong lồng, và anh đi vì tự do, để cô ở lại cái lồng đó.
Phần về năm 2005 mang lại câu chuyện khiến cho nhiều người rất yêu thích, nhưng cũng sẽ có nhiều người phản ứng, đó là A time for youth. Có một cô gái lưỡng tính – cô có (và đã từng có) bạn gái nhưng cô vẫn tìm tới một người đàn ông. Hình ảnh cô gái đó đứng bên cửa sổ, cô che con mắt sáng của mình lại và nhìn vào người đàn ông bằng con mắt gần như mù với tôi là một chi tiết không bao giờ quên được. Nhân vật Qing – tên cô gái này – luôn quay lại với tôi khi tôi nghĩ về một người bạn. Sự tồn tại của cô thực sự chỉ là một bàn tay bám hờ hững vào cuộc sống. Cô luôn phải đeo tấm thẻ ghi thông tin để người ta biết cách cứu cô khi đột quỵ, cô yêu mà không yêu, cô buồn trong mọi hoàn cảnh, cô hát những lời rạn vỡ. Cô không có quá khứ, không có tương lại, chỉ có một thực tại của “hunger”. Cô gái trong phim này còn bi đát hơn cả người cô gái trong Millennium Mambo. Tình yêu của cô với người bạn gái hay với người đàn ông thực ra đều không tồn tại, và như tôi đã nói, tới năm 2005, tình yêu đã chết rồi (và giờ đã là năm 2009).
Điều kỳ quặc với riêng tôi là tôi không đồng cảm với bất cứ câu chuyện tình nào trong ba câu chuyện tình kể trên. Nhưng, toàn bộ phim, cả ba cuộc tình đó, lại chia sẻ với tôi rất nhiều điều. Hình ảnh cuối cùng của phần thứ nhất, năm 1966 khiến tôi nghĩ tới câu hát của Phạm Duy “Đưa em về dưới mưa, nói bao nhiêu cũng thừa”… Và cô gái của năm 2005, với khuôn mặt cô buồn bã, hoang mang thành vô cảm khi ngồi sau chiếc xe của người đàn ông khiến tôi nghĩ tới mọi thứ đang diễn ra quanh mình, Hà Nội. Người phụ nữ của năm 1911, với nỗi đau khổ chuyển thành thanh âm của bài hát, với cách cô chu đáo chỉnh lại từng chiếc khăn sau khi kẻ khác dùng, cách chăm chút kẻ lại đôi lông mày, và cách cô không háo hức nhưng kiên nhẫn đọc lá thư của người tình đã bỏ mặc cô khiến tôi cảm thấy chữ “đẹp” được hiện lên thành hình ảnh.
Và tôi nghĩ, ngoài Hầu Hiếu Hiền ra, không ai có thể tạo nên ở tôi cảm giác đó.
Ngay cả khi Three times chưa từng đứng trong top 5 phim tôi muốn xem lại nhất.